Những người trải qua tổn thương thời thơ ấu có nhiều khả năng không tuân thủ các biện pháp hạn chế COVID-19, tiêm vaccine, quy định đeo khẩu trang và giãn cách xã hội.
Những người từng trải qua tổn thương thời thơ ấu có nhiều khả năng cảm thấy không muốn tuân thủ các biện pháp hạn chế phòng chống COVID-19 của chính phủ, từ chối tiêm vaccine, ủng hộ gỡ bỏ quy định đeo khẩu trang và giãn cách xã hội, theo nghiên cứu được thực hiện ở những người trưởng thành xứ Wales do Cơ quan Y tế Công cộng Wales tài trợ và đăng trên tạp chí BMJ Open trong ngày 1.2.
Theo kết quả cuộc khảo sát được các nhà nghiên cứu thực hiện qua điện thoại trên 2.285 người từ 18 tuổi trở lên ở Wales, những người từng bị tổn thương nghiêm trọng hơn trong thời thơ ấu – chẳng hạn như bị lạm dụng thể chất, tâm lý hoặc tình dục hoặc bạo lực gia đình hoặc sử dụng chất kích thích – có khả năng cao hơn không tin vào thông tin COVID-19 từ Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh và không thực hiện những biện pháp hạn chế COVID-19.
Trong khi những người từng trải qua cả bốn hoặc nhiều tổn thương hơn có khả năng từ chối tiêm vaccine phòng ngừa COVID-19 cao hơn ba lần so với những người không bị tổn thương trong thời thơ ấu.
Thanh thiếu niên cũng có nhiều khả năng từ chối vaccine hơn, với tỉ lệ 18,39% người ở độ tuổi 18-29 tỏ ra do dự tiêm vaccine trong khi chỉ 2,74% những người từ 70 tuổi trở lên ngần ngại tiêm vaccine.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy chỉ dưới 1/10 người được hỏi cho biết không muốn tuân thủ các biện pháp hạn chế COVID-19, nhưng trong đó, những người trải qua nhiều tổn thương hơn, những người trẻ tuổi và nam giới có nhiều khả năng không tuân thủ cao hơn.
Theo nghiên cứu, những người tham gia khảo sát đã trải qua bốn tổn thương trở lên có khả năng không tuân thủ các biện pháp hạn chế cao gấp đôi so với những người không bị tổn thương.
Các nhà nghiên cứu cho biết trong suốt thời gian đại dịch xảy ra, nguy cơ một số trẻ em trải qua những trải nghiệm đau thương có thể tăng và khả năng tiếp cận các nguồn lực như sự hỗ trợ từ người lớn và kết nối với cộng đồng địa phương có thể giảm.
Những người trải qua tổn thương thời thơ ấu có nhiều nguy cơ bị trầm cảm, béo phì, tiểu đường, đột quỵ, ung thư và các hậu quả tiêu cực khác hơn.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC), tổn thương thời thơ ấu có nhiều khả năng xảy ra ở những trẻ không được người chăm sóc gần gũi, những trẻ có quan hệ tình dục sớm hoặc những trẻ bị người chăm sóc đánh hoặc sử dụng các hình thức trừng phạt thân thể khác để kỷ luật.
Những mạng lưới xã hội mạnh và những người chăm sóc đã tốt nghiệp đại học hoặc có việc làm ổn định là những yếu tố giúp bảo vệ trẻ không bị những tổn thương thời thơ ấu. Theo một nghiên cứu được công bố vào năm 2019 của trung tâm Thông tin Công nghệ Sinh học Quốc gia Mỹ, các tổn thương thời thơ ấu làm cho thanh thiếu niên thiếu niềm tin vào ngành y.
Theo CDC, Mỹ có 81 triệu người vẫn chưa được tiêm vaccine phòng ngừa COVID-19.
Các nhà nghiên cứu cho biết “đạt được sự tuân thủ các lời khuyên về đại dịch và sức khỏe cộng đồng tốt hơn là một lý do khác cần đầu tư để tạo ra một tuổi thơ an toàn và bảo đảm tất cả trẻ em không bị tổn thương cũng như có nhiều nguồn lực để giúp các trẻ bị tổn thương hồi phục. Các biện pháp trên dường như không chỉ làm giảm các hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh trong suốt cuộc đời mà còn có thể làm giảm sự lây lan của COVID-19 hoặc các mối đe dọa do những bệnh truyền nhiễm khác có thể gây ra cho sức khỏe cộng đồng trong những thập niên tiếp theo.”
Hầu hết những người được khảo sát, bao gồm cả những người đã cho biết bị tổn thương thời thơ ấu, đều tuân thủ các biện pháp hạn chế COVID-19 và ủng hộ tiêm chủng, các nhà nghiên cứu cho biết thêm.
Biên dịch: Gia Nhi