Gánh nặng nợ công leo thang tại các nền kinh tế lớn thế giới, làm suy giảm tăng trưởng trong khi đó mức nợ công của Việt Nam được duy trì ở ngưỡng cảnh báo an toàn.
Theo báo cáo công khai kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2024, dư nợ công cuối năm khoảng 34,7% GDP. Nợ Chính phủ Việt Nam khoảng 32,2% GDP và dư nợ vay nước ngoài của quốc gia khoảng 31,8% GDP, giảm so với năm trước, thấp hơn mức trần và ngưỡng cảnh báo được Quốc hội cho phép.
Báo cáo cho biết tỷ lệ này góp phần đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, tạo dư địa để huy động thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển. Công tác trả nợ được thực hiện đầy đủ, đúng hạn theo cam kết.
Theo Công ty Cổ phần Xếp hạng Tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating), tăng trưởng GDP đạt 7,09%, vượt mục tiêu đề ra là 6 – 6,5% và đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu trong khu vực cũng như trên thế giới.
VIS Rating cho biết thêm, các chỉ tiêu tài khóa quan trọng như bội chi ngân sách, nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài đều nằm trong giới hạn cho phép, góp phần nâng cao độ tin cậy và an toàn tài chính quốc gia.
Nhờ đó, trong năm 2024, cả ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm lớn gồm Moody’s, Fitch Ratings và S&P Global Ratings đều duy trì xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam ở mức BB+ và Ba2 với triển vọng ổn định.
Theo ông Lê Tự Quốc Hưng, trưởng phòng cao cấp Trung tâm Phân tích, Chứng khoán Rồng Việt, Chính phủ kiểm soát chi tiêu hiệu quả, giữ bội chi ngân sách ở mức hợp lý. GDP của Việt Nam duy trì tăng trưởng ở mức cao, giúp cải thiện tỷ lệ nợ công so với GDP. Ngoài ra, tốc độ tăng nợ công thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP, giúp tỷ lệ nợ công/GDP giảm dần.
“Tỷ lệ nợ công thấp mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam. Chính phủ có thêm không gian để thực hiện các chính sách tài khóa hỗ trợ tăng trưởng, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động,” ông Hưng nói.
Ngoài ra, ông nhận định rằng mức nợ công thấp tạo niềm tin cho nhà đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời, giảm áp lực lạm phát và lãi suất, góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
Đáng chú ý trong thời gian tới là dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam có tổng vốn đầu tư khoảng 67 tỷ USD, tương đương khoảng 15% GDP năm 2024. Nếu toàn bộ vốn đầu tư được vay nợ, tỷ lệ nợ công có thể tăng lên khoảng 47,9% GDP, nhưng vẫn dưới mức trần 60% do Quốc hội quy định và dưới ngưỡng khuyến nghị của IMF là 70 – 80%, theo ông Hưng.
Tuy nhiên, theo ông Hưng, áp lực nợ công có thể được giảm thiểu thông qua phân kỳ đầu tư. Điều này có nghĩa là dự án được triển khai theo từng giai đoạn, tránh dồn áp lực tài chính vào một thời điểm.
Huy động vốn đa dạng từ ngân sách, vốn vay ưu đãi và đầu tư tư nhân (PPP) để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, ông Hưng nói.
Bên cạnh đó Chính phủ cần cải thiện quy trình quản lý và giải ngân vốn đầu tư công để đảm bảo tiến độ và hiệu quả sử dụng vốn. Theo ông Hưng, việc giải ngân chậm và quản lý dự án kém hiệu quả có thể dẫn đến lãng phí và tăng chi phí đầu tư.
Nếu toàn bộ vốn đầu tư được vay nợ, tỷ lệ nợ công có thể tăng lên khoảng 47,9% GDP, nhưng vẫn dưới mức trần 60% do Quốc hội quy định và dưới ngưỡng khuyến nghị của IMF là 70 – 80%
Ông Lê Tự Quốc Hưng, trưởng phòng cao cấp Trung tâm Phân tích, Chứng khoán Rồng Việt
Trước biến động kinh tế toàn cầu, tăng trưởng GDP và khả năng trả nợ có thể bị những cú sốc kinh tế từ bên ngoài ảnh hưởng đến. Ngoài ra, tăng cường vay nợ từ các tổ chức quốc tế mà không kiểm soát chặt chẽ có thể dẫn đến rủi ro nợ.
Vì vậy, “để kiểm soát nợ công, Việt Nam cần tiếp tục cải cách thể chế, nâng cao hiệu quả đầu tư công và đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư,” ông Hưng khuyến nghị.
Theo dữ liệu từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam dự báo sẽ tăng lên 33.6% trong năm 2025 và tiếp tục tăng lên 37.1% trong năm 2030.
Theo forbes.baovanhoa.vn (https://forbes.baovanhoa.vn/no-cong-cua-viet-nam-van-thap-hon-nguong-canh-bao)
2 tháng trước
Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng tích cực trong quý 1.2025