Sự kiện và Bình luận

Từ Nhật Bản nhìn về Việt Nam: Nâng cao giá trị gia tăng cho nông nghiệp Việt

Việt Nam đang đối mặt với không ít thách thức khi muốn số hóa nền nông nghiệp và nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông sản, qua đó cải thiện đời sống cho nông dân và gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Share
this:

Năm 2005, hơn 55% lao động Việt Nam làm việc trong ngành nông nghiệp, lĩnh vực đóng góp 20% GDP. Tuy nhiên, đến năm 2016, tỉ lệ này giảm còn 41,9% và đóng góp vào GDP chỉ còn 15%. Số lao động làm nông nghiệp trong hộ gia đình giảm từ 2,6% năm 2006 xuống còn 2,04% năm 2016 theo nghiên cứu của Ayerst năm 2020.

Một số liệu khác từ Tổng cục Thống kê Việt Nam cho thấy, đến năm 2023, có khoảng 13,8 triệu lao động trong ngành nông nghiệp và thủy sản, chiếm 26,9% tổng lao động, trong khi đóng góp của ngành vào GDP chỉ còn khoảng 12%, mặc dù nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng để đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu.

Ông Trần Đăng Xuân, Giáo sư, Tiến sĩ Đại học Hiroshima (Nhật Bản) và Chủ tịch Hội Chuyên gia Việt Nhật (VJS)

Nhìn sang Nhật Bản, lực lượng lao động trong ngành nông nghiệp giảm từ 4,4% năm 2006 xuống còn 3,3% năm 2016. Đến năm 2023, mặc dù GDP đạt hơn 4,2 ngàn tỉ đô la Mỹ, nông nghiệp chỉ đóng góp 1%. Chính phủ Nhật hỗ trợ nông dân khoảng 50 tỉ đô la Mỹ hằng năm, với lãi suất vay thấp và được ưu đãi ít thuế khi có lãi.

Trong khi đó, Việt Nam chỉ có Quỹ Hỗ trợ Nông dân 5.200 tỉ đồng (khoảng 207 triệu đô la Mỹ) cho sáu tháng đầu năm 2024, theo báo Dân Việt vào tháng 11.2024. Nhật Bản xuất khẩu khoảng 9,9 tỉ đô la Mỹ nông sản trong năm 2023, tương ứng 8.534 đô la Mỹ/nông dân, gấp đôi so với Việt Nam (4.240 đô la Mỹ/nông dân). Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là dệt may, gỗ, rau quả, gạo, cà phê, hạt điều và tôm. Nhật Bản xuất khẩu các sản phẩm như thịt bò, sò điệp, táo, cá cam và rượu sake.

Để thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp và các ngành nông nghiệp liên quan đến thực phẩm, Nhật Bản đã công bố 39 dự án vào tháng 3.2021, tập trung vào cải cách hành chính và xây dựng nền tảng chuyển đổi số trong nông nghiệp và thực phẩm.

Thực ra, từ năm 2019, Nhật đã triển khai 182 dự án nông nghiệp thông minh trên toàn quốc. Trong năm 2021, Nhật cũng đã phát triển hệ thống đăng ký chung của MAFF (eMAFF), cho phép nông dân, các cơ quan hữu quan và công ty sử dụng các thủ tục hành chính trực tuyến. Đến cuối năm 2022, hơn 3.000 thủ tục hành chính đã được số hóa hoàn toàn.

Tính đến năm 2020, 11% diện tích ruộng lúa nhỏ của Nhật đã được tích hợp thành ô ruộng lớn và 47% diện tích ruộng lúa đã được nâng cấp thành các ruộng lúa đa chức năng bằng cách lắp hệ thống thoát nước ngầm. Xứ sở mặt trời mọc cũng phát triển hệ thống quản lý nước, máy móc nông nghiệp tự động và mạng lưới thông tin nông thôn.

Thêm nữa, vào tháng 3.2022, Nhật đã thông qua dự luật sửa đổi Luật cải thiện đất đai, gồm phát triển hệ thống thoát nước nông nghiệp và hệ thống thoát nước ngầm, cũng như cải tiến các tổ chức quản lý trung gian đất nông nghiệp. Những dự án này có thể được thực hiện mà không cần sự đóng góp tài chính từ nông dân, nhằm đẩy nhanh quá trình tích tụ và hợp nhất đất nông nghiệp.

Trở về với Việt Nam, theo báo cáo từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam trong năm 2024 ước đạt kỷ lục hơn 62 tỉ đô la Mỹ, tăng 18,5% so với năm 2023, nhưng thặng dư đạt tới 18,6 tỉ đô la Mỹ, tăng hơn 53%.

Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu nông sản trên mỗi nông dân của Việt Nam chỉ bằng gần một nửa Nhật Bản, thua xa Hoa Kỳ (hơn 52 ngàn đô la Mỹ/nông dân), Liên minh châu Âu (hơn 20 ngàn đô la/nông dân), chỉ cao hơn Thái Lan (1.528 đô la/nông dân), theo Thông tấn xã Việt Nam.

Giá gạo xuất khẩu trung bình của Việt Nam năm 2023 là 580 đô la Mỹ/tấn, tăng 19% so với năm 2022, thấp hơn giá trong nước (600 đô la Mỹ/tấn) và gạo Nàng Hoa (860 đô la Mỹ/tấn). Điều này cho thấy Việt Nam đang hướng đến sản xuất nông sản giá trị cao, ưu tiên thị trường trong nước trước khi xuất khẩu.

Nhiều cánh đồng lúa của Việt Nam được canh tác bằng phân thuốc sinh học, đáp ứng các tiêu chí chất lượng và an toàn để xuất khầu.

Trong nhiều năm qua, một câu chuyện được nhắc đến liên tục là Việt Nam cần chú trọng nâng cao chất lượng và độ an toàn của sản phẩm nông nghiệp, như đạt tiêu chuẩn Viet GAP hoặc các sản phẩm địa phương đạt chứng nhận OCOP. Tổng giám đốc AEON tại Nhật Bản từng chia sẻ rằng, nếu mọi sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đạt chứng chỉ Global GAP, AEON sẽ sẵn sàng nhập khẩu toàn bộ.

Global GAP yêu cầu tiêu chuẩn khắt khe hàng năm, không chỉ áp dụng cho từng cá nhân nông dân mà còn cho cả vùng trồng, bao gồm các yếu tố như an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, quản lý môi trường, sức khỏe và an toàn lao động, cùng phúc lợi động vật trong ngành chăn nuôi. Các chuỗi siêu thị lớn như Tesco, Metro, Walmart, Carrefour đều yêu cầu tiêu chuẩn Global GAP. Đây là điều kiện quan trọng đối với việc xuất khẩu nhiều loại nông sản sang Nhật Bản, châu Âu và Hoa Kỳ.

Việt Nam thường nhắc đến “nông nghiệp công nghệ cao”, thực chất chính là áp dụng các tiêu chuẩn như Global GAP hay JAS của Nhật Bản. Để thực hiện điều này, cần một nguồn lực tài chính lớn, cùng sự phát triển và ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp và bảo quản thực phẩm. Hiện nay, nhiều tập đoàn lớn tại Việt Nam đã chuyển sang sản xuất nông nghiệp, tập trung vào sản xuất, đầu tư tài chính và quản lý minh bạch hơn.

Đồng thời, điều này phù hợp với sự chuyển dịch lao động trẻ từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, vốn đang diễn ra rõ rệt. Theo Bộ Lao động, tỉ lệ lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 11,2% (1990) lên 18,2% (2005). Ngược lại, số lao động trong ngành nông nghiệp giảm gần 119 ngàn người trong năm 2023 so với năm trước đó, theo Tổng cục Thống kê Việt Nam.

Việt Nam đang đối mặt với không ít thách thức khi muốn số hóa nền nông nghiệp và nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông sản, qua đó cải thiện đời sống cho nông dân và gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Chính phủ đang nỗ lực cải cách và số hóa các thủ tục hành chính, bao gồm cả lĩnh vực nông nghiệp.

Tuy nhiên, với nền kinh tế còn khiêm tốn, với GDP chưa đến 500 tỉ đô la Mỹ, Việt Nam sẽ cần thêm nhiều năm để có đủ nguồn lực tài chính và nhân lực nhằm áp dụng hiệu quả các chính sách mà các quốc gia như Nhật Bản hay các nền kinh tế phát triển khác đang thực hiện trong việc số hóa nông nghiệp và xây dựng thương hiệu nông sản quốc gia.

Trước mắt, Việt Nam cần tập trung vào những công việc có thể triển khai ngay, phù hợp với năng lực điều hành và tiềm lực tài chính, khoa học kỹ thuật hiện tại. Điều quan trọng là phải nâng cao nhận thức, năng lực quản lý, học hỏi và ứng dụng khoa học kĩ thuật của nông dân, đối tượng đang chiếm gần 27% lực lượng lao động.

Mít trồng tại vùng đồng bằng sông Cửu Long
Mít trồng tại vùng đồng bằng sông Cửu Long

Nông dân Việt Nam hiện đang bị mất rất nhiều lợi nhuận khi các công ty trung gian thu mua nông sản với giá thấp nhất có thể, nhưng lại bán với giá cao cho các sản phẩm như phân bón, thuốc trừ sâu hay các vật liệu khác trong sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, phân bón hữu cơ nhập khẩu từ Nhật Bản có giá chỉ khoảng 3.000 đồng/kg khi về đến cảng Việt Nam, nông dân phải mua với giá 9-10 ngàn đồng, vì phải qua nhiều tầng trung gian. Đặc biệt, nhiều thương lái địa phương còn bán với giá “cắt cổ” vì nông dân phải mua trước và trả sau khi thu hoạch.

Trong khi đó, tại Nhật Bản, hơn 80% nông dân bán sản phẩm qua tổ chức hợp tác xã nông nghiệp (JA). Tổ chức này có chức năng thu mua, kiểm soát chất lượng và phân phối sản phẩm trực tiếp tới các siêu thị, chợ đầu mối hay các gian hàng của chính JA. Các siêu thị lớn như AEON, Seiyu, Ito-Yakado cũng mua hàng trực tiếp từ hợp tác xã hoặc các nông trại lớn mà không qua thương lái. Với các sản phẩm hữu cơ, phần lớn đều được các siêu thị mua trực tiếp từ nông dân hoặc từ các chợ nông dân, giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào thương lái.

Trong khi đó, ở Việt Nam, thương lái đóng vai trò quan trọng trong việc thu mua nông sản từ các hộ nhỏ lẻ, sau đó phân phối đến các chợ đầu mối hoặc nhà phân phối lớn. Các siêu thị như WinMart, Big C, Co.opmart thường mua qua các công ty phân phối, khiến chi phí đội lên đáng kể. Mặc dù mô hình bán hàng trực tiếp từ nông dân tới siêu thị đã xuất hiện tại một số nơi như VinEco (trước đây của Vingroup) hay các trang trại hữu cơ, nhưng vẫn còn khá hạn chế và chưa phổ biến rộng rãi. Chính các thương lái trung gian này đang tạo ra một trong những rào cản lớn trong việc kiểm soát giá cả thị trường và chất lượng sản phẩm nông sản, đặc biệt là vấn đề truy xuất nguồn gốc.

Ngoài ra, các doanh nghiệp và chính quyền cần thay đổi cách tiếp cận thức thời hơn trong việc giới thiệu nông sản Việt Nam vào các thị trường như Nhật Bản. Thay vì chỉ tập trung vào việc xuất khẩu những sản phẩm sẵn có, cần phải nghiên cứu và đánh giá thị trường kỹ lưỡng để sản xuất những mặt hàng phù hợp với nhu cầu thực tế của người tiêu dùng Nhật Bản.

Đơn cử, mặc dù Việt Nam đã nỗ lực đưa các sản phẩm như xoài và vải vào Nhật, nhưng chi phí xử lý để đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của Nhật Bản lại rất cao, trong khi nhu cầu tiêu thụ các loại quả này tại Nhật lại không lớn. Việt Nam có thể áp dụng một số công nghệ như điều chỉnh nhiệt độ, ánh sáng chiếu hay phân bón để thay đổi thời gian thu hoạch vải sớm hơn hoặc muộn hơn từ một đến hai tháng, là đã có thể tăng nguồn thu rất lớn ngay trong nội địa và xuất khẩu sang các thị trường dễ tính hơn như Trung Quốc.

Bên cạnh đó, việc phát triển hệ thống kho lạnh tại các tỉnh như An Giang, Cần Thơ, Long An, Kiên Giang và vùng đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là khu vực ven biên giới Việt–Trung, sẽ giúp giảm thiểu tổn thất do hư hại và kéo dài thời gian trong bảo quản nông sản. Hiện nay, việc vận chuyển nông sản từ miền Nam ra biên giới Việt – Trung qua đường thủy, đặc biệt là đường biển, vẫn chưa tốt. Điều này tạo ra những thách thức trong việc nâng cao giá trị nông sản của Việt Nam trước khi tiến tới nền nông nghiệp số hóa và thông minh mà Nhật Bản và các quốc gia tiên tiến đang thực hiện.

Theo forbes.baovanhoa.vn (https://forbes.baovanhoa.vn/tu-nhat-ban-nhin-ve-viet-nam-nang-cao-gia-tri-gia-tang-cho-nong-nghiep-viet)