Phiên thảo luận đầu tiên với chủ đề “Xoay trục kinh tế”, tập trung vào vai trò trung tâm của khu vực tư nhân trong xoay trục tăng trưởng, bài toán vốn cho siêu dự án, cải cách pháp lý và thị trường tài chính, cùng thông điệp chuyển từ quản trị rủi ro sang lãnh đạo kiến tạo (ESL).
Phiên thảo luận có sự tham gia của ông Đặng Thành Tâm, chủ tịch Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn (SGI); ông Lê Ngọc Lâm, tổng giám đốc Ngân hàng BIDV; chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành. Nội dung thảo luận do bà Trịnh Quỳnh Giao, tổng giám đốc CTCP Quản lý quỹ PVI (PVI AM), điều phối.
Bà Trịnh Quỳnh Giao: Ông đánh giá thế nào về xu hướng xoay trục sang thị trường nội địa và sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu? Triển vọng của những chuyển dịch này ra sao?
Chuyên gia Võ Trí Thành: Nếu chỉ nhìn vào đầu tư công, tiêu dùng hay sự dịch chuyển chuỗi cung ứng thì là chưa đủ. Thực tế, chúng ta đang ở thời điểm của một cuộc chuyển mình mang tính cách mạng: phải tư duy lại, thiết kế lại và xây dựng lại mô hình phát triển.
Mục tiêu không còn đơn thuần là tăng trưởng nhanh hay thu nhập cao, mà còn phải bảo đảm tính bền vững, bao trùm và chuyển đổi xanh. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam phải thay đổi căn bản mô hình phát triển.
Hội nhập quốc tế vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng điểm khác biệt hiện nay là doanh nghiệp Việt Nam buộc phải nâng cao năng lực tự cường. Trong một thế giới ngày càng định hình bởi chủ nghĩa đơn phương, chúng ta vừa phải bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa duy trì sự cởi mở và tiếp tục hội nhập.
Việt Nam cũng cần chủ động nâng cấp các hiệp định thương mại tự do, để tận dụng tốt hơn thị trường nội địa hơn 100 triệu dân, một không gian phát triển khổng lồ cho doanh nghiệp. Nếu nhìn vào ngắn hạn và trung hạn, cả tiêu dùng nội địa lẫn đầu tư công đều giữ vai trò then chốt.
Hiện đầu tư công chiếm khoảng 30% tổng đầu tư toàn xã hội. Chỉ riêng trong lễ khánh thành hôm 19.8.2025 vừa qua đã có 250 dự án chiến lược được công bố, trong đó 37% vốn đến từ khu vực nhà nước, phần còn lại là tư nhân và nước ngoài. Đáng chú ý, khu vực tư nhân đang tham gia mạnh mẽ và sâu rộng hơn trước đây rất nhiều.
Về trung hạn, dư địa chính sách của Việt Nam còn đáng kể. Nợ công hiện ở mức 37% GDP, thấp hơn nhiều so với trần 60%, tạo khoảng không lớn cho tài khóa. Cán cân ngân sách và thâm hụt vẫn trong tầm kiểm soát. Điều này cho phép Nhà nước tiếp tục đầu tư mạnh vào R&D, đổi mới sáng tạo và hệ thống giáo dục, đào tạo. Trong thời gian tới, dự kiến sẽ có hai nghị quyết quan trọng liên quan đến cải cách giáo dục và định hướng phát triển kinh tế.
Trong định hướng phát triển mới, Chính phủ nhấn mạnh “bộ tứ” gồm tăng trưởng xanh, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng như những động lực chính của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các trụ cột mở rộng thành “bộ lục” với việc bổ sung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nâng cao năng lực quản trị quốc gia. Cánh cửa cơ hội vẫn rộng mở và doanh nghiệp Việt Nam phải tiếp tục lấy “sức mạnh nội sinh” làm nền tảng, kết hợp với sức bật từ hội nhập quốc tế.
Bà Trịnh Quỳnh Giao (PVI AM): Với vai trò đại diện khối doanh nghiệp thu hút FDI, ông nhìn nhận thế nào về cơ hội từ chính sách thuế quan? Liệu đây có phải là động lực để doanh nghiệp Việt Nam thúc đẩy nội địa hóa và tránh rủi ro bị cáo buộc chuyển giá?
Ông Đặng Thành Tâm (SGI): Chúng ta đang ở trong giai đoạn chuyển đổi quan trọng, với chính sách thuế quan toàn cầu thay đổi nhanh chóng. Hiện Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ ba vào Mỹ, đồng thời tỷ trọng thị trường này cũng ở mức cao nhất trong danh mục xuất khẩu của Việt Nam. Chính sách thuế quan của Mỹ đặt ra yêu cầu buộc doanh nghiệp phải thay đổi cách tiếp cận, mở ra những hướng đi mới không thể vận hành theo mô hình gò bó như trước.
Một trong những thách thức lớn nhất là vấn đề hàng hóa trung chuyền (transshipment). Mỹ cho rằng tỷ lệ hàng hóa của Việt Nam có nguồn gốc nguyên phụ liệu nhập từ nước khác, rồi chỉ gia công lại để xuất khẩu, có thể chiếm đến 50%. Điều này không chỉ diễn ra trong may mặc, mà còn ở các lĩnh vực công nghệ cao, kể cả trong chuỗi sản xuất của Apple, Samsung hay LG. Bài toán đặt ra là làm sao để giảm tỷ trọng này. Hiện con số mức thuế quan 20% mà Việt Nam đạt được tuy chưa phải thấp nhất nhưng đã là một mức cạnh tranh đáng kể.
Nếu so sánh với các đối thủ, Ấn Độ và Trung Quốc đang phải chịu mức thuế cao, trong khi nhiều nước trong khu vực có năng lực sản xuất – xuất khẩu chưa đủ đe dọa đến sức thu hút của Việt Nam hoặc còn đang đối mặt bất ổn chính trị. Như vậy, Việt Nam vẫn là một điểm đến hấp dẫn. Xu hướng áp thuế với nguyên phụ liệu nhập khẩu sẽ buộc các doanh nghiệp phụ trợ quốc tế phải di dời sang Việt Nam. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội: doanh nghiệp trong nước cần đồng hành để xây dựng chuỗi cung ứng ngay tại chỗ.
Kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Đài Loan cho thấy chính phủ các nước này đều lập quỹ để hỗ trợ doanh nghiệp phụ trợ dịch chuyển đầu tư. Ở Việt Nam, chính sách hỗ trợ cho khu vực phụ trợ vẫn cần nhiều cải thiện hơn nữa. Các doanh nghiệp phụ trợ vẫn gặp khó khi tiếp cận vốn, bởi ngân hàng không thể chỉ vay ngắn hạn từng năm, theo từng hợp đồng với các chuỗi cung ứng quốc tế. Đây là điểm nghẽn cần tháo gỡ.
“Nhà nước nên chăng cần có quỹ phát triển công nghiệp phụ trợ, qua đó tăng năng lực cạnh tranh cho cả chuỗi sản xuất,”
Ông Đặng Thành Tâm, chủ tịch Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn (SGI)
Từ phía cộng đồng doanh nghiệp, chúng tôi sẵn sàng tham gia và ủng hộ. Tuy nhiên, chắc chắn cần sự hỗ trợ chính sách mạnh mẽ hơn từ Chính phủ. Đặc biệt, việc nới trần “room” tín dụng cũng đã mở thêm dư địa để doanh nghiệp huy động vốn. Nếu không tận dụng cơ hội này, chúng ta sẽ bỏ lỡ nhịp trong cuộc cạnh tranh toàn cầu.
Bà Trịnh Quỳnh Giao (PVI AM): Từ góc độ ngân hàng, nguồn vốn sẽ hỗ trợ thế nào cho tiến trình đổi mới của doanh nghiệp? Các ngân hàng hiện có chính sách hay chương trình gì cụ thể để đồng hành cùng doanh nghiệp?
Ông Lê Ngọc Lâm (BIDV): Các ngân hàng, trong đó có BIDV, luôn mong muốn tìm kiếm những dự án khả thi, những khách hàng tốt để đồng hành. Mặt bằng lãi suất hiện nay của Việt Nam đang ở mức cạnh tranh rất tốt so với khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn.
BIDV là định chế tài chính có vốn nhà nước chi phối, đồng thời có quy mô tín dụng lớn nhất hệ thống. Chúng tôi thường xuyên dành nguồn lực cho các chương trình tín dụng trung và dài hạn, tập trung hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực sản xuất.
Tuy nhiên, có một khó khăn cố hữu là “bài toán con gà và quả trứng”. Doanh nghiệp muốn tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu thì phải có những khoản đầu tư ban đầu đáng kể. Nhưng với ngân hàng, nếu chưa nhìn thấy hợp đồng đầu ra cụ thể, thì cũng rất khó để mạnh dạn giải ngân. Đây là điểm nghẽn chung. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần có những cơ chế bổ sung, chẳng hạn như quỹ bảo lãnh của Chính phủ, để tạo chỗ dựa cho doanh nghiệp đầu tư ban đầu, từ đó mới đủ điều kiện nhận được hợp đồng và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị quốc tế.
Về phía ngân hàng, chúng tôi đều mong muốn tăng trưởng tín dụng. Nhưng để làm được điều này, doanh nghiệp cũng phải nâng cao năng lực tài chính, quản trị dòng tiền và có chiến lược kinh doanh rõ ràng, khả thi. Nếu doanh nghiệp chứng minh được những yếu tố này, ngân hàng sẵn sàng đồng hành.
Có thể nói, hiện nay là giai đoạn rất thuận lợi để doanh nghiệp mở rộng đầu tư. Lãi suất thấp, nhu cầu tín dụng của ngân hàng cao, trong khi định hướng của Chính phủ cũng nhất quán với việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển công nghiệp phụ trợ. Nếu doanh nghiệp chuẩn bị tốt về tài chính, quản trị và minh bạch thông tin, thì không chỉ BIDV mà tất cả các ngân hàng đều sẵn sàng tham gia đồng hành, cùng doanh nghiệp nắm bắt cơ hội để đưa nền kinh tế phát triển đúng định hướng.
Bà Trịnh Quỳnh Giao (PVI AM): Liên quan đến đề xuất thành lập quỹ đổi mới sáng tạo với sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng , ông nhìn nhận thế nào? Ở góc độ chính sách, sự sẵn sàng của doanh nghiệp Việt Nam ra sao?
Chuyên gia Võ Trí Thành: Chính phủ thực tế đã ban hành một số nghị định nhằm hỗ trợ đổi mới sáng tạo, nhưng phải thẳng thắn rằng hiệu quả vẫn chưa cao. Khi bàn về chuỗi cung ứng, cần phân biệt hai loại: loại do người mua chi phối (buyer-driven) và loại do nhà sản xuất chi phối (producer-driven). Trong cả hai trường hợp, điều cốt lõi là doanh nghiệp phải gắn kết được với chuỗi giá trị toàn cầu và biết rõ mình đang đứng ở vị trí nào trong chuỗi giá trị đó.
Ở tầm chính sách, chúng ta thường tập trung hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn tham gia các dự án trọng điểm. Nhưng nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng kết nối, thì họ cũng sẽ được hưởng lợi từ hiệu ứng lan tỏa. Luật Công nghiệp nền tảng, trong đó bao gồm cả công nghiệp hỗ trợ, đang được xây dựng và sẽ tập trung vào những ngành then chốt mà Việt Nam quan tâm, như năng lượng mới, nông nghiệp công nghệ cao, bán dẫn và công nghệ xanh.
Điều quan trọng là dám làm và dám chịu trách nhiệm. Vai trò của những người đứng đầu trong doanh nghiệp và trong bộ máy nhà nước có ý nghĩa quyết định để biến ý tưởng thành hành động, thể chế hóa thành chính sách cụ thể. Nói cách khác, chính sách chỉ thực sự đi vào cuộc sống khi lãnh đạo có tầm nhìn và “dám gánh rủi ro”.
Nếu nhìn vào các điển hình quốc tế, quỹ hỗ trợ đổi mới thường được hình thành từ ba nguồn: một phần vốn ngân sách, một phần từ doanh nghiệp và phần còn lại từ các định chế tài chính. Ở Hàn Quốc và Đài Loan, các quỹ này đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc kéo các doanh nghiệp phụ trợ vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi mô hình này để tạo ra cú hích cho công nghiệp hỗ trợ và đổi mới sáng tạo.
Vấn đề cuối cùng là gắn kết giữa mục tiêu ngắn hạn và trung hạn với tầm nhìn dài hạn. Chúng ta không thể chỉ nhìn 5 hay 7 năm tới, mà cần một chiến lược cho 2030, 2045. Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, nếu được thực thi hiệu quả, sẽ giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị mới đang định hình, thay vì chỉ đứng ở vị trí gia công giá trị thấp.
Bà Trịnh Quỳnh Giao (PVI AM): Chính phủ đang mở đường cho khu vực tư nhân tham gia vào các siêu dự án hạ tầng. Theo ông, đâu là cơ hội quan trọng nhất cho doanh nghiệp lúc này?
Ông Đặng Thành Tâm (SGI): Cơ hội lớn nhất chính là sự lan tỏa. Khi doanh nghiệp lớn tham gia các dự án hạ tầng trọng điểm, họ tạo ra dư địa để doanh nghiệp nhỏ kết nối và cùng phát triển. Đó là mối quan hệ hỗ trợ hai chiều. Chúng ta có thể nhìn vào một số ví dụ tiêu biểu: Techcombank tham gia dự án sân bay Gia Bình (Bắc Ninh), hay Sun Group phát triển sân bay Phú Quốc. Những dự án này không chỉ dừng lại ở hạ tầng cốt lõi, mà còn kéo theo hàng loạt cơ hội vệ tinh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay, Chính phủ cũng khuyến khích doanh nghiệp đăng ký tham gia đầu tư các tuyến cao tốc. Từ hạ tầng giao thông, chúng ta có thể phát triển thêm mô hình Transit-Oriented Development (TOD) , tức phát triển đô thị dọc theo tuyến hạ tầng. Nếu chỉ làm BOT và thu phí đơn thuần, dự án sẽ rất khó có hiệu quả tài chính. Nhưng nếu kết hợp TOD, giá trị kinh tế sẽ tăng lên đáng kể, cả cho nhà đầu tư lẫn địa phương.
Một thay đổi quan trọng về cơ chế là trước đây, để tham gia siêu dự án, doanh nghiệp phải có vốn chủ sở hữu rất lớn. Nay yêu cầu chỉ còn ở mức 15% vốn chủ sở hữu, phần còn lại các ngân hàng sẵn sàng cho vay tới 85%. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi. Lãi suất hiện cũng ở mức thấp, khiến tính khả thi tài chính của các dự án tăng lên rõ rệt. Trước kia doanh nghiệp thường “vừa làm vừa lo sợ”, thì nay khung chính sách và pháp lý rõ ràng hơn, thủ tục nhanh hơn, tạo thêm niềm tin để tham gia.
Cơ hội đang mở ra rất nhanh. Với khung pháp lý ngày càng minh bạch, sự tham gia của các ngân hàng trong việc cấp tín dụng, cùng chủ trương mạnh mẽ của Chính phủ, tư nhân Việt Nam có thể tự tin đồng hành trong các dự án hạ tầng chiến lược. Đây là bước chuyển quan trọng, đưa nền kinh tế vào một giai đoạn phát triển mới.
Bà Trịnh Quỳnh Giao (PVI AM): Về nguồn vốn hiện tại, ngân hàng có thể hỗ trợ các dự án hạ tầng dài hạn như thế nào?
Ông Lê Ngọc Lâm (BIDV): Các ngân hàng, trong đó có BIDV, đã có nhiều kinh nghiệm tài trợ cho các dự án hạ tầng. Đây là những dự án có vòng đời rất dài, thường kéo dài 15–20 năm. Chúng tôi hoàn toàn có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn với nhiều kênh huy động khác nhau: từ phát hành trái phiếu, huy động nguồn vốn dài hạn trong nước, cho đến vay từ các định chế tài chính quốc tế.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn thẳng vào thực tế: ngân hàng cũng đi vay để cho vay, nên lãi suất khó có thể thấp hơn mức thị trường. Chúng tôi không thể có những nguồn vốn ưu đãi vượt ngoài cơ chế. Vì vậy, để các dự án hạ tầng lớn khả thi, rất cần sự tham gia và hỗ trợ từ Nhà nước.
Điểm tích cực là gần đây Chính phủ đã ban hành các cơ chế PPP (hợp tác công – tư) rõ ràng hơn trước nhiều. Trong các dự án này, thường sẽ có ba cấu phần: phần vốn Nhà nước hỗ trợ, phần vốn doanh nghiệp, và phần vốn vay ngân hàng. Đặc biệt, một số dự án còn có cơ chế bảo lãnh doanh thu tối thiểu từ Nhà nước, giúp nhà đầu tư và ngân hàng yên tâm hơn khi tham gia.
Thực tế, BIDV đã tham gia tài trợ cho nhiều dự án hạ tầng trong suốt 20–30 năm qua, từ BOT giao thông, điện năng lượng, cho đến các dự án cấp nước. Với mỗi dự án, chúng tôi đều xây dựng phương án riêng, có khi phát hành trái phiếu, có khi huy động vốn nước ngoài, hoặc cân đối vốn dài hạn trong hệ thống.
Trong quá trình thẩm định, nếu thấy phương án tài chính chưa bảo đảm, chúng tôi thường kiến nghị tăng tỷ lệ hỗ trợ từ vốn Nhà nước để dự án có thể vận hành ổn định. Đây là cách chia sẻ rủi ro hợp lý giữa ba bên: Nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng. Có thể nói, cơ chế pháp lý hiện nay đã thông thoáng hơn rất nhiều so với trước đây. Với sự rõ ràng này, các doanh nghiệp sẽ tự tin hơn khi đầu tư vào hạ tầng, còn ngân hàng cũng có cơ sở vững chắc để đồng hành.
Bà Trịnh Quỳnh Giao (PVI AM): Theo ông, kênh huy động vốn chủ lực cho các siêu dự án sẽ đến từ đâu? Làm thế nào để có được bệ phóng vững vàng?
Chuyên gia Võ Trí Thành: Muốn có bệ phóng cho các siêu dự án, trước hết Việt Nam cần một thị trường tài chính cân đối và vững chắc hơn. Hiện tại chúng ta vẫn dựa quá nhiều vào hệ thống ngân hàng. Thị trường cổ phiếu mới ở giai đoạn sơ khai, còn trái phiếu thì thiếu nền tảng vững chắc. Trong ngắn hạn, ngân hàng vẫn là trụ cột, nhưng về dài hạn, bắt buộc phải đa dạng hóa.
Một điểm then chốt là huy động vốn quốc tế. Việt Nam không thể chỉ trông chờ vào ODA như trước, mà phải chủ động tiếp cận nguồn vốn toàn cầu. Muốn vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia phải được nâng cao, kinh tế vĩ mô ổn định và xếp hạng tín nhiệm cải thiện. Nếu rủi ro quốc gia còn cao, lãi suất vay quốc tế cũng sẽ rất cao.
Có một nghịch lý là trong 2, 3 năm gần đây, tổng tiết kiệm (savings) của Việt Nam lại cao hơn tổng đầu tư. Vấn đề là làm sao chuyển hóa nguồn tiết kiệm này thành đầu tư thực sự cho sản xuất và kinh doanh. Đây là câu chuyện quan trọng không kém việc huy động vốn quốc tế.
Điểm tích cực là khu vực tư nhân nay đã được đặt vào vị trí trung tâm của đổi mới quốc gia. Họ không chỉ tham gia vào các dự án kinh tế xã hội lớn, mà còn trực tiếp góp mặt trong những lĩnh vực trọng yếu như an ninh quốc phòng hay hạ tầng quốc gia. Đây là điều chưa từng có tiền lệ.
Tất nhiên, đi kèm cơ hội là rủi ro. Yêu cầu về minh bạch, giải trình và giám sát trở nên sống còn. PPP là cơ chế cần thiết, nhưng phải hài hòa giữa mục tiêu của Nhà nước và doanh nghiệp, tránh tình trạng dự án quá lớn rồi dừng giữa chừng. Ngoài ra, rủi ro vĩ mô, từ lãi suất đến tỷ giá, cũng phải được tính toán kỹ.
Chưa bao giờ tư nhân được trọng vọng và đặt niềm tin như hiện nay. Rủi ro vẫn còn, nhưng đó là rủi ro để quản trị, không phải để sợ hãi. Nếu quản lý tốt, chúng ta hoàn toàn có thể biến rủi ro thành động lực phát triển, tạo dựng một nền tảng tài chính vững mạnh cho các siêu dự án quốc gia.
Bà Trịnh Quỳnh Giao (PVI AM): Tư nhân sẽ là lực lượng tiên phong trong cải cách nền kinh tế. Theo ông, trong quá trình xoay trục này, đâu là những nút thắt lớn nhất cản trở vai trò của khu vực tư nhân?
Ông Đặng Thành Tâm (SGI): Đúng là cải cách hành chính đã có bước tiến, nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề pháp lý vẫn còn tồn tại, đặc biệt là Luật Đất đai và Luật Đầu tư. Đây là những điểm nghẽn lớn, bởi nhiều dự án cần thời gian đầu tư dài hơn nhưng khung pháp lý chưa đáp ứng được.
Một nút thắt khác là sự tiếp cận tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên. Hiện nay, tư nhân Việt Nam chưa được tham gia bình đẳng như doanh nghiệp nước ngoài. Chúng ta cần đặt câu hỏi: tại sao doanh nghiệp nước ngoài được quyền tham gia ngay cả những dự án khoáng sản trọng điểm, còn doanh nghiệp của Việt Nam thì lại không? Trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam cũng có năng lực, tinh thần yêu nước và đã dấn thân ra “biển lớn”.
Minh bạch cũng là vấn đề cốt lõi. Đặc biệt, trong huy động vốn qua cổ phiếu hay trái phiếu, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn. Với doanh nghiệp lớn, thực tế họ rất ít vay ngân hàng, mà chủ yếu dựa vào thị trường vốn. Nếu thị trường không minh bạch, rủi ro hệ thống sẽ rất lớn.
Bước tiếp theo phải là ESL (Environmental, Social, Leadership). Từ “Governance” – quản trị – phải tiến hóa thành “Leadership” – lãnh đạo kiến tạo, bởi chỉ có lãnh đạo kiến tạo mới đủ sức mở ra những không gian phát triển mới, truyền cảm hứng đổi mới và đặt nền móng cho sự bền vững dài hạn.
Ông Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế.
Ngoài ra, cần nhìn rộng hơn về nguồn lực lao động của ta hiện dồi dào, mà nền kinh tế trong nước chưa đủ sức để cung ứng việc làm chất lượng cao. Do đó, chính sách cần linh hoạt để tận dụng cơ hội từ thế giới. Chẳng hạn như Israel gần đây đề xuất tiếp nhận 500.000 lao động xây dựng từ Việt Nam, với mức lương 3.000–5.000 USD/tháng. Đây là tín hiệu cho thấy lao động Việt Nam có thể đáp ứng được những chuẩn mực khắt khe ở một quốc gia có tỷ lệ công nghệ cao hàng đầu trong sản xuất. Vấn đề là làm sao để có cơ chế thông thoáng để tận dụng những cơ hội tương tự như trường hợp này này, vừa nâng cao tay nghề lao động, vừa khai thông thêm kênh vốn phát triển cho đất nước.
Chuyên gia Võ Trí Thành: Tôi bổ sung thêm, theo khảo sát gần đây về thực tế quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, tới 80% thời gian của hội đồng quản trị thường bị cuốn vào quản trị rủi ro và tuân thủ. Đó là những công việc cần thiết, nhưng đồng thời cũng khiến chúng ta bỏ quên điều cốt lõi: tạo dựng giá trị và nuôi dưỡng niềm tin cho nhà đầu tư, cho thị trường và cho xã hội.
Đã đến lúc cần một sự dịch chuyển về tư duy. Nếu ESG là khung tham chiếu quen thuộc, thì bước tiếp theo phải là ESL (Environmental, Social, Leadership). Từ “Governance” – quản trị – phải tiến hóa thành “Leadership” – lãnh đạo kiến tạo, bởi chỉ có lãnh đạo kiến tạo mới đủ sức mở ra những không gian phát triển mới, truyền cảm hứng đổi mới và đặt nền móng cho sự bền vững dài hạn.
Theo forbes.baovanhoa.vn (https://forbes.baovanhoa.vn/sieu-du-an-tim-be-phong-khi-xoay-truc-tang-truong)