Doanh nghiệp

Chờ khung pháp lý giúp thị trường quản lý gia sản đạt điểm bùng phát

3 giờ trước
Tác giả Trọng Nam

Tại phiên thảo luận thứ hai của Hội nghị Đầu tư do Forbes Việt Nam tổ chức ngày 26.6.2025, các diễn giả trao đổi về tương lai của thị trường tài chính cá nhân và quản lý gia sản Việt Nam. Cuộc thảo luận tập trung vào xu hướng chuyên môn hóa chiến lược đầu tư, nhu cầu chuyển giao và bảo toàn tài sản giữa các thế hệ, đồng thời chỉ ra những khoảng trống lớn về cơ chế, dịch vụ và nhận thức trên thị trường tài chính trong nước.

Share
this:

Chia sẻ trong phiên thảo luận này gồm các chuyên gia giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý tài chính và đầu tư, bao gồm bà Nguyễn Thị Hằng Nga, Tổng giám đốc Công ty Quản lý Quỹ Vietcombank (VCBF) và bà Nguyễn Hoài Thu, Phó tổng giám đốc Công ty Cổ phần Quản lý Quỹ VinaCapital. Ông Trần Duy Minh Khoa, Phó chủ tịch Duy Tân Recycling, đại diện cho quan điểm của nhà đầu tư trẻ, là thế hệ F2, và là người từng tiếp cận với dịch vụ quản lý tài sản và gia sản. Phiên thảo luận được điều phối bởi ông Nguyễn Công Ái, Phó tổng giám đốc KPMG Việt Nam.

Tầng lớp giàu có đang tăng nhanh tại Việt Nam chính là thị trường hấp dẫn cho dịch vụ quản lý gia sản phát triển.

Ông Nguyễn Công Ái, KPMG: Hiện Việt Nam có hơn 5.000 cá nhân sở hữu trên 10 triệu USD. Thị trường tài sản tài chính cá nhân có thể đạt 600 tỷ USD vào năm 2027, trong khi tầng lớp trung lưu dự kiến chiếm 26% dân số vào năm 2026. Các anh, chị đánh giá như thế nào về tiềm năng của thị trường tài chính cá nhân tại Việt Nam, đặc biệt là thị trường dịch vụ quản lý tài sản và gia sản?

Bà Nguyễn Thị Hàng Nga, VCBF: Tôi muốn làm rõ hai khái niệm dễ bị nhầm lẫn: “quản lý tài sản” và “quản lý gia sản”.

Quản lý tài sản tập trung vào từng loại tài sản cụ thể như cổ phiếu, trái phiếu, quỹ mở hay bất động sản, phù hợp với nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức. Mỗi loại tài sản mang lại lợi nhuận khác nhau tùy khẩu vị rủi ro.

Còn quản lý gia sản là khái niệm rộng hơn, liên quan đến lập kế hoạch tài chính tổng thể, chiến lược thuế, thừa kế và chuyển giao tài sản giữa các thế hệ. Dịch vụ này hướng đến các gia đình có quy mô tài sản lớn, với mục tiêu không chỉ là sinh lời mà còn đảm bảo an toàn và bền vững trong quản trị tài sản lâu dài.

Tại Việt Nam, thị trường quản lý tài sản đạt khoảng 28-29 tỷ USD (6-7% GDP), nhưng 80-90% là tài sản ủy thác từ công ty bảo hiểm. Quỹ mở chỉ khoảng 2 tỷ USD (0,5% GDP), với khoảng 400.000 nhà đầu tư, rất nhỏ so với 9 triệu tài khoản chứng khoán hiện có.

Dù quỹ mở đầu tiên xuất hiện từ năm 2012, đến nay thị trường vẫn rất sơ khai. So với Trung Quốc (22% GDP), Ấn Độ (18%) hay Mỹ (trên 130%), Việt Nam còn nhiều dư địa tăng trưởng. Riêng quản lý gia sản, ước tính có khoảng 8-11 triệu người Việt có tài sản tài chính đáng kể, nhưng phần lớn vẫn tập trung ở bất động sản, còn tài sản tài chính vẫn còn hạn chế.

Hiện Việt Nam có rất ít đơn vị cung cấp dịch vụ quản lý gia sản đúng nghĩa. Một số ngân hàng có dịch vụ khách hàng cao cấp (private banking), nhưng vẫn chủ yếu là giao dịch tài khoản, chưa đi sâu vào lập kế hoạch tài chính, thuế hay chiến lược thừa kế. Dịch vụ quản lý gia sản hiện vẫn rời rạc, manh mún và thiếu hành lang pháp lý rõ ràng.

Bà Nguyễn Hoài Thu, VinaCapital: “Giáo dục tài chính ở VIệt Nam gần như chưa được triển khai sớm.”

Bà Nguyễn Hoài Thu, VinaCapital: Khi chị Hằng Nga trình bày phần trước, tôi thấy có rất nhiều điểm đáng lưu ý và đồng tình. Tôi thường nói đùa rằng sau gần 20 năm làm trong lĩnh vực này, tôi vẫn chưa thấy thời điểm bùng nổ thật sự của ngành quản lý tài sản cá nhân. Chúng ta đang sống trong một “đại dương xanh” về cơ hội, vì tỷ lệ người Việt có tài khoản đầu tư và tham gia quỹ đầu tư còn quá nhỏ, chỉ khoảng 0,4-0,5% dân số. Trong khi đó, ở Mỹ là 57% và trong nhóm hộ gia đình có thu nhập trên 200.000 USD, tỷ lệ này vượt 90%.

Ở Việt Nam, giáo dục tài chính gần như chưa được triển khai từ sớm. Nếu người Việt được giáo dục về tài chính cá nhân, hiểu lãi kép, biết cách đầu tư định kỳ và hoạch định tài chính thì thị trường này đã phát triển lớn hơn rất nhiều so với hiện tại.

Chúng tôi cũng đã làm các phân tích tương tự như VCBF và nếu lấy thị trường Thái Lan làm mốc thì quy mô ngành quỹ ở Việt Nam phải tăng lên gấp nhiều lần mới tương xứng. Trong khi tổng tài sản quản lý khoảng 28-29 tỷ USD, thì phần cổ phiếu thực sự được quản lý bởi các quỹ nội chỉ chiếm vài tỷ USD, vì phần lớn tài sản của công ty bảo hiểm đang đầu tư vào trái phiếu.

Trên thị trường chứng khoán Việt Nam, dù 9% dân số có tài khoản giao dịch, nhưng nhà đầu tư cá nhân chiếm đến 85-90% giá trị giao dịch hàng ngày.

Tại các thị trường như Mỹ hay Nhật, tỷ lệ nhà đầu tư cá nhân chỉ khoảng 18-23%, vì đa phần người dân đầu tư thông qua các quỹ – họ giao tiền cho các đơn vị chuyên nghiệp để quản lý thay. Điều này không chỉ phản ánh sự chuyên nghiệp hóa mà còn cho thấy sự tin tưởng của nhà đầu tư với dịch vụ tài chính trung gian.

Ở Việt Nam, môi trường lao động còn tương đối linh hoạt, nên kỹ sư hay nhân viên văn phòng vẫn có thể “lướt sóng” chứng khoán. Nhưng ở nước ngoài thì gần như không có chuyện đó – ai làm việc thì tập trung làm việc, còn đầu tư thì giao cho người có chuyên môn. Vì thế, tôi cho rằng ngành tài chính cá nhân tại Việt Nam sẽ không thể phát triển mạnh nếu chúng ta không phát triển được đội ngũ tư vấn tài chính chuyên nghiệp – tức là thiếu hẳn một “nghề” tư vấn tài chính cá nhân, cả về cơ sở đào tạo lẫn hành lang pháp lý.


Tại các thị trường như Mỹ hay Nhật, tỷ lệ nhà đầu tư cá nhân chỉ khoảng 18-23%, vì đa phần người dân đầu tư thông qua các quỹ – họ giao tiền cho các đơn vị chuyên nghiệp để quản lý thay. Điều này không chỉ phản ánh sự chuyên nghiệp hóa mà còn cho thấy sự tin tưởng của nhà đầu tư với dịch vụ tài chính trung gian.


Bà Nguyễn Hoài Thu, Phó tổng giám đốc Công ty Cổ phần Quản lý Quỹ VinaCapital

Anh Trần Duy Minh Khoa, Duy Tân Recycling: Kinh tế tư nhân ở Việt Nam có lịch sử khá ngắn và hiện nay nhiều gia đình đang bước vào giai đoạn chuyển giao thế hệ. Thế hệ F1 (sáng lập) thường là những người khởi nghiệp từ con số 0. F2, thế hệ tiếp nối,  có nhiệm vụ đưa công ty từ 1 lên 5, tức là tăng trưởng và mở rộng quy mô. Hai thế hệ có trải nghiệm, tư duy chiến lược khác nhau: F1 là người “xây dựng”, còn F2 phải vừa kế thừa, vừa thiết kế tái cấu trúc.

Thế hệ F2 không thể là chuyên gia trong tất cả các lĩnh vực, vì vậy họ cần tiếp cận dịch vụ tư vấn chuyên sâu, đặc biệt là về đầu tư, quản lý danh mục tài sản và lập chiến lược tài chính. Đây là lý do tại sao nhu cầu đối với dịch vụ quản lý gia sản chắc chắn sẽ tăng mạnh trong những năm tới.

Ông Nguyễn Công Ái, KPMG: “Tiềm năng của thị trường tài chính cá nhân tại Việt Nam, đặc biệt là thị trường dịch vụ quản lý tài sản và gia sản còn rất lớn.”

Ông Nguyễn Công Ái, KPMG: Khi nhu cầu không chỉ là tăng trưởng tài sản mà còn là bảo toàn và chuyển giao qua nhiều thế hệ, đâu là những cấu trúc đầu tư hoặc giải pháp mà các công ty quản lý tài sản có thể tư vấn cho nhà đầu tư để đạt mục tiêu kép này?

Bà Nguyễn Thị Hằng Nga, VCBF: Câu hỏi rất hay. Tôi xin phép trả lời từ hai góc độ:

Thứ nhất, từ phía công ty quản lý quỹ như VCBF, tức là đơn vị cung cấp sản phẩm đầu tư, chúng tôi tạo ra các sản phẩm giống như những “viên gạch”, mỗi sản phẩm có một chiến lược đầu tư riêng biệt. Khi nhà đầu tư lập kế hoạch phân bổ tài sản, họ sẽ lựa chọn những “viên gạch” này và kết hợp chúng theo mục tiêu của mình.

Ví dụ: nếu nhà đầu tư muốn tiếp cận thị trường cổ phiếu Việt Nam, họ có thể lựa chọn quỹ cổ phiếu của chúng tôi, nơi chúng tôi đầu tư gần như 100% vào cổ phiếu, chứ không giữ tiền mặt hay chờ thời. Vì họ kỳ vọng rằng quỹ sẽ mang lại hiệu suất cổ phiếu đúng với mục tiêu.

Hiện VCBF có 3 quỹ cổ phiếu với các chiến lược khác nhau, một quỹ trái phiếu và một quỹ cân bằng (balanced fund). Mỗi quỹ đều có chiến lược đầu tư rõ ràng, dựa trên nghiên cứu kỹ lưỡng và đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp, chứ không lướt sóng theo thị trường. Chúng tôi tìm kiếm những doanh nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao, ban lãnh đạo tốt, có chiến lược rõ ràng, có khả năng vượt qua biến động vì suy cho cùng, điều cốt lõi vẫn là con người.

Bà Nguyễn Thị Hằng Nga: “Nhà đầu tư là người xây dựng “ngôi nhà tài chính” cho chính mình, họ cần biết cách phân bổ tài sản theo từng tầng mục tiêu.”

Thứ hai, về phía nhà đầu tư – người xây dựng “ngôi nhà tài chính” cho chính mình, họ cần biết cách phân bổ tài sản theo từng tầng mục tiêu. Theo thống kê từ một khảo sát lớn với hơn 500 công ty quản lý gia sản toàn cầu (tổng quản lý trên 2.500 tỷ USD), thì một gia đình có tài sản từ vài chục đến vài trăm triệu USD thường phân bổ như sau:

Tầng 1 – Tài sản an toàn (khoảng 32%): bao gồm nhà ở (ngôi nhà chính và nhà nghỉ dưỡng), tiền gửi, bảo hiểm – nhằm bảo vệ tài sản khỏi rủi ro lớn.

Tầng 2 – Tài sản tạo dòng tiền (khoảng 34%): gồm trái phiếu, bất động sản thương mại, quỹ tín thác – giúp duy trì dòng tiền ổn định.

Tầng 3 – Tài sản tăng trưởng: gồm cổ phiếu (15-18%) và bất động sản có tính đầu cơ (10-12%).

Tầng 4 – Tài sản mạo hiểm (khoảng 3–4%): như vàng, bitcoin, tài sản số, PE, VC…

Tài sản đặc biệt khác (khoảng 3%): bao gồm tác phẩm nghệ thuật hoặc liên quan đến cảm xúc hay sưu tập như rượu vang, đồng hồ, xe cổ…

Tỷ trọng từng tầng thay đổi tùy theo quốc gia. Ở Mỹ, tầng tài sản tài chính (cổ phiếu, quỹ) chiếm ưu thế; trong khi ở Trung Quốc, bất động sản vẫn là ưu tiên hàng đầu.

Tôi chia sẻ những con số này để nhà đầu tư Việt Nam có thể tham khảo mô hình phân bổ bài bản, từ đó điều chỉnh danh mục của mình phù hợp hơn với mục tiêu dài hạn không chỉ tìm kiếm tăng trưởng, mà còn là quản trị rủi ro và chuẩn bị cho việc chuyển giao tài sản trong tương lai.

Ông Nguyễn Công Ái, KPMG: Bà Hoài Thu, với vai trò là nhà quản lý quỹ đã nhiều năm đồng hành cùng nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam, chị có thể chia sẻ rõ hơn về cách VinaCapital thiết kế các chiến lược đầu tư phù hợp với khẩu vị rủi ro ngày càng đa dạng của khách hàng? Làm thế nào để cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng và an toàn dài hạn?

Bà Nguyễn Hoài Thu, VinaCapital: Điều đầu tiên tôi muốn nói là: các nhà đầu tư cá nhân hiện nay đã thay đổi rất nhiều so với trước kia. Họ hiểu rõ hơn về chính mình, hiểu họ cần gì. Điều đó giúp chúng tôi có thể tư vấn và thiết kế chiến lược một cách cá nhân hóa, hiệu quả hơn.

Tại VinaCapital, chúng tôi có nhiều sản phẩm đầu tư với các mức độ rủi ro và kỳ vọng lợi nhuận khác nhau. Ví dụ, trong nhóm quỹ cổ phiếu, chúng tôi có bốn quỹ với bốn mục tiêu đầu tư khác nhau, từ chiến lược tăng trưởng tích cực đến chiến lược ổn định, phòng thủ. Ngoài ra, chúng tôi còn có một quỹ cân bằng là sản phẩm được thiết kế để có sức chống chịu tốt với những biến động mạnh của thị trường Việt Nam.

Khẩu vị rủi ro của nhà đầu tư rất đa dạng và không phải ai cũng nhận ra điều đó từ đầu. Thường phải trải qua những “bài học xương máu” trong đầu tư, có thể là một khoản lỗ, hoặc một giai đoạn biến động mạnh, thì nhà đầu tư mới bắt đầu có cái nhìn căn cơ, bài bản hơn.

Tôi thấy hiện nay, các nhà đầu tư ngày càng trưởng thành. Họ hiểu rằng nếu đầu tư dài hạn, nếu đồng hành với quỹ đầu tư có chiến lược rõ ràng, thì hiệu suất sau khi điều chỉnh rủi ro (Sharpe ratio) sẽ cao hơn nhiều so với việc đầu tư cá nhân thiếu kỷ luật.

Cá nhân tôi tin rằng: điều quan trọng nhất là con người. Khi làm việc với khách hàng, tôi luôn dành thời gian để hiểu họ không chỉ về tài sản, mà còn về niềm tin, mục tiêu gia đình, nguyện vọng truyền thừa. Việc đầu tư là một phần trong hành trình đó. Và chúng tôi đang xây dựng các giải pháp cá nhân hóa thực sự chứ không chỉ là gói sản phẩm.

Ông Nguyễn Công Ái, KPMG: Dưới góc nhìn là thế hệ kế tiếp trong một doanh nghiệp gia đình lớn, anh đánh giá thế nào về nhu cầu cân bằng giữa tăng trưởng và bảo toàn vốn, đặc biệt là với các cấu trúc gia đình sở hữu công ty riêng? Và anh có suy nghĩ gì về mô hình Quản lý gia sản (Family office)?

Trần Duy Minh Khoa: Chúng tôi phải lựa chọn giữa việc duy trì mô hình kinh doanh truyền thống hay chủ động chuyển đổi chiến lược để thích ứng với những cơ hội đầu tư mới.”

Anh Trần Duy Minh Khoa, Duy Tan Recycling: Với các doanh nghiệp gia đình, tôi cho rằng không có rủi ro nào lớn hơn rủi ro đến từ yếu tố con người, đặc biệt là khi bước vào giai đoạn chuyển giao giữa các thế hệ. Thế hệ thứ nhất, tức thế hệ sáng lập, thường là những người khởi nghiệp từ con số không, tự mình gây dựng công ty từ nền móng đầu tiên. Họ làm việc vì sinh tồn, vì khát khao thoát nghèo. Thế hệ thứ hai, như chúng tôi, là những người tiếp nối hành trình ấy. Chúng tôi vẫn còn nhớ rất rõ những khó khăn mà cha mẹ mình từng trải qua và điều đó ảnh hưởng lớn đến cách chúng tôi nhìn nhận trách nhiệm kế thừa. Còn thế hệ thứ ba, khi khoảng cách với thời kỳ gian khổ đã trở nên quá xa, rất dễ mất phương hướng nếu không được dẫn dắt bởi một hệ giá trị chung.

Trong gia đình tôi, tài sản lớn nhất chính là doanh nghiệp. Và với mỗi thế hệ, vai trò của họ trong doanh nghiệp cũng rất khác nhau. Nếu ví doanh nghiệp như một ngôi nhà, thì thế hệ thứ nhất là những người thợ xây đầu tiên, đặt móng, dựng tường và thiết kế nền tảng. Thế hệ thứ hai, như chúng tôi, lại giống như những kiến trúc sư. Nhiệm vụ của chúng tôi là phải cải tiến, tái cấu trúc ngôi nhà sao cho phù hợp với nhu cầu mới của gia đình và bối cảnh thị trường đang thay đổi.

Thế hệ chúng tôi luôn phải tự đặt câu hỏi rằng: có nên tiếp tục giữ ngôi nhà này như cũ, hay nên xây dựng một kiểu nhà khác? Nói cách khác, chúng tôi phải lựa chọn giữa việc duy trì mô hình kinh doanh truyền thống hay chủ động chuyển đổi chiến lược để thích ứng với những cơ hội đầu tư mới.

Trong hành trình đó, chúng tôi nhận ra mình phải học cách gìn giữ những giá trị cốt lõi của gia đình, bao gồm cả những ngành kinh doanh nền tảng đã tạo dựng nên uy tín của thế hệ trước. Nhưng đồng thời, chúng tôi cũng phải học cách mở rộng góc nhìn, tiếp cận các cơ hội mới, từ các kênh đầu tư như quỹ đầu tư mạo hiểm, cổ phần tư nhân cho đến thị trường chứng khoán toàn cầu. Việc phân bổ tài sản một cách thông minh là cách duy nhất để bảo toàn và gia tăng giá trị qua các biến động ngày càng lớn của nền kinh tế thế giới.

Chúng tôi không phải là chuyên gia trong mọi lĩnh vực và chúng tôi hiểu rằng mình cũng không nên cố gắng trở thành như vậy. Điều chúng tôi cần là xây dựng một hệ sinh thái những người đồng hành đáng tin cậy, bao gồm các chuyên gia tư vấn đầu tư, tài chính, pháp lý, để hỗ trợ việc ra quyết định chiến lược một cách sáng suốt và dài hạn. Nhất là khi thế hệ thứ hai bắt đầu đóng vai trò trung tâm trong việc điều hành doanh nghiệp, đồng thời cũng là người mang trọng trách hoạch định tương lai tài chính và di sản của cả gia đình.


Khi thế hệ thứ hai bắt đầu đóng vai trò trung tâm trong việc điều hành doanh nghiệp, họ đồng thời cũng là người mang trọng trách hoạch định tương lai tài chính và di sản của cả gia đình.

Anh Trần Duy Minh Khoa, Duy Tân Recycling

Ông Nguyễn Công Ái, KPMG: Vậy theo các diễn giả, khuôn khổ pháp lý cần được xây dựng như thế nào để vừa tạo niềm tin cho khách hàng khi sử dụng các dịch vụ tài chính, vừa tạo điều kiện cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển thị trường một cách bền vững?

Bà Nguyễn Thị Hằng Nga, VCBF: Với vai trò là đơn vị quản lý tài sản, chúng tôi giống như nhà sản xuất, cần có đầu vào là hàng hóa đầu tư (trái phiếu, cổ phiếu, quỹ…) và đầu ra là các kênh phân phối hiệu quả. Nhưng hiện tại, cả hai phía đều đang bị tắc.

Về đầu ra, ở nhiều nước, ngân hàng là kênh phân phối lớn nhất. Nhưng ở Việt Nam, ngân hàng không được phân phối trực tiếp mà phải qua công ty con, nơi không sở hữu khách hàng. Điều này khiến việc phân phối sản phẩm quỹ rất hạn chế. Tôi kiến nghị cần thay đổi tư duy chính sách, cho phép ngân hàng chính thức phân phối quỹ và cung cấp dịch vụ quản lý gia sản. Điều này sẽ không làm tăng rủi ro hệ thống, mà ngược lại, giúp giảm tải cho ngân hàng khi dòng tiền đi trực tiếp từ nhà đầu tư vào quỹ và từ đó vào doanh nghiệp.

Dịch vụ ngân hàng cao cấp sẽ không thể phát triển nếu ngân hàng không được tư vấn và triển khai quản lý gia sản một cách chính thống.

Về đầu vào, chẳng hạn với quỹ trái phiếu, sản phẩm được xem là an toàn và dễ bán, thì hiện chúng tôi không có gì để đầu tư vì thiếu trái phiếu niêm yết đủ điều kiện. Quy định phát hành trái phiếu ra công chúng cần được nới lỏng để tăng nguồn cung.

Tương tự, thị trường cổ phiếu cũng đang thiếu sản phẩm mới. Nhiều năm không có IPO đáng kể, trong khi các nhóm ngành lớn như bất động sản vẫn thiếu tính đa dạng. Chúng tôi cần các sản phẩm cấu trúc, ESG, REITs… nhưng chưa triển khai được vì thiếu nền tảng pháp lý và thị trường phù hợp.

Tôi rất mong chính phủ có chính sách mang tính đột phá như ưu đãi thuế có thời hạn cho doanh nghiệp IPO để tăng lượng hàng hóa cho thị trường, thu hút thêm dòng vốn trong và ngoài nước.

Cuối cùng, với các gia đình có điều kiện, nhu cầu đầu tư ra nước ngoài là có thật. Nếu đầu tư minh bạch qua kênh chính thống thì dòng tiền đi và về đều hợp pháp. Dân giàu thì nước mạnh, điều quan trọng là tạo được hệ thống pháp lý đủ tin cậy để phục vụ nhu cầu ngày càng lớn này.

Ồng Nguyễn Công Ái, KPMG: Các anh chị có thể dự đoán một mốc thời gian mà theo anh chị, thị trường tài chính cá nhân tại Việt Nam sẽ thực sự bùng phát? 

Bà Nguyễn Thị Hằng Nga, VCBF:Thực sự rất khó để đưa ra một con số cụ thể. Vì như tôi đã trình bày trước đó, nếu những nút thắt hiện nay về pháp lý, hạ tầng phân phối và chất lượng nguồn nhân lực không được giải quyết thì thị trường khó có thể phát triển đột phá. Chúng ta cần có những người đủ giỏi để tư vấn tài chính một cách chuyên nghiệp và cần khung pháp lý để giám sát những người đó. Tôi e rằng điều này sẽ không diễn ra sớm.

Bà Nguyễn Hoài Thu, VinaCapital: Tôi nghĩ chúng ta nên học từ bài học của Trung Quốc. Thị trường quản lý tài sản của họ bùng nổ trong giai đoạn 2010-2020, khi GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.500 USD, gần tương đương mức hiện nay của Việt Nam. Nhưng yếu tố then chốt không nằm ở thu nhập, mà ở cải cách thể chế.

Trung Quốc đã triển khai một loạt chính sách: nới lỏng các rào cản pháp lý để ngân hàng và các công ty tài chính có thể phân phối sản phẩm quản lý tài sản, mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài, tự do hóa lãi suất để tăng tính linh hoạt trong đầu tư và đặc biệt là ưu đãi thuế cho cả nhà đầu tư lẫn nhà phát hành.

Fintech cũng được hỗ trợ mạnh mẽ để tham gia sâu vào thị trường tài chính cá nhân. Họ còn đầu tư mạnh vào giáo dục tài chính cộng đồng, giúp người dân hiểu rõ hơn về đầu tư dài hạn.

Chúng ta hiện đang thiếu trái phiếu, cổ phiếu, hàng hóa cho quỹ đầu tư. Thị trường trái phiếu chính phủ chỉ chiếm 19% GDP, trái phiếu doanh nghiệp chiếm 9,5% GDP. Muốn phát triển quản lý tài sản, con số này phải vượt 100% GDP.

Xin bổ sung thêm một ví dụ từ Singapore. Chính phủ nước này dù không cần huy động vốn nhưng vẫn đều đặn phát hành trái phiếu để tạo đường cong lợi suất chuẩn, giúp các sản phẩm đầu tư định giá tốt hơn. Họ làm điều này không vì ngân sách, mà để xây dựng nền tảng thị trường tài chính.

Thái Lan thì đẩy mạnh giáo dục tài chính công cộng. Các nền tảng chia sẻ kiến thức đầu tư được chính phủ hậu thuẫn và phổ biến rộng rãi. Đây là lý do vì sao các nước trong khu vực đã phát triển thị trường tài chính cá nhân mạnh mẽ hơn Việt Nam, dù điều kiện khởi điểm có khi không quá khác biệt.

Anh Trần Duy Minh Khoa, Duy Tân Recycling: Tôi nghĩ mốc thời gian thực tế để thị trường quản lý gia sản tại Việt Nam phát triển đúng nghĩa sẽ rơi vào khoảng năm 2040.

Theo forbes.baovanhoa.vn (https://forbes.baovanhoa.vn/cho-khung-phap-ly-giup-thi-truong-quan-ly-gia-san-dat-diem-bung-phat)